"Trăng lạnh" - còn một chút tôi của Lê Ngã Lễ

10:40 28/08/2008
NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.

Là một nhà giáo gắn bó đời mình suốt 35 năm trong sự nghiệp trồng người vì thế nhà thơ muốn đạt thành công lớn trong nghề nhưng chưa một lần nhận được sự hài lòng mà chỉ nhận được sự bải hoải đời người:
"Thâm canh trên cánh đồng chữ
Chưa một lần bội thu
Chữ đã phai sắc màu"

Quay lại tìm bóng trong trăng; trăng, rượu và bạn bè hoà nhập vào một. Mượn trăng làm thuyền đi truy gốc của đời, đi vào cõi lạ trong cuộc mộng du, chiêm bao chính trong chiêm bao. Chút tôi của Lê Ngã Lễ chỉ là ngọn gió giỡn trăng, mơ màng giữa cõi thực và ảo:
"Nghe tay nghiêng nón
Múc đầy bóng em"
"Vong ngôn lên hỏi thiền duyên
Thắp lên ngọn gió
Đưa thuyền trăng lay"
Chơi vơi giữa cuộc đời, đôi lúc anh dừng lại để tỉnh, quay quắt tìm lại mình và chợt không nhận ra mình. Cái chút tôi lạ lẫm lại xuất hiện.
"Đứng trước gương soi
Thấy mình lạ lẫm
...
Đứng trước bầu trời
Nhặt cõi mênh mông"

Để "lạ hoá chính mình" trong cuộc sống, nhận thức cái kiếp tầm gửi, tác giả như say như tỉnh. Tỉnh để "lạ với cốc rượu", say để tìm bóng dáng trẻ trung trong sáng tác.
"Để mong vắt kiệt
Thơ xanh với đời"
Bóng dáng trẻ trung ấy cũng có thể là hình ảnh một người con gái bắt gặp rồi gắn vào thơ của mình thật ấm cúng, hạnh phúc. Cái tôi tươi mát của tuổi hồi xuân(?) sống dậy tạo nên chất men say của đời.
"Em từ men rượu bước ra
Ngỡ như trăng với riêng ta
Tự tình"
Trở về với đêm yên tĩnh, ban ngày đối với anh lại là mộng, đêm lại là thực. Những phác hoạ thơ bây giờ mới hiện thực và đầy ắp nỗi nhớ "Để xe nỗi nhớ. Vào bờ mưa đêm". Cái tôi cô đơn lớn dậy để thấy:
"Chút đời chưa với kịp
Đã vuột khỏi tầm tay"
Còn một chút tôi của Lê Ngã Lễ nói về gia đình, bạn bè. Cuộc rong chơi đã chắp nối cho anh đôi cánh rộng để nhập vào thơ. Cùng bạn bè có lúc anh ngỡ:
"Phiêu diêu uống cạn nụ cười hoàng hôn"
Với con gái, anh lấy lời mẹ ru để chúc phúc:
"Giấc mơ ngủ lịm bên lời mẹ ru"
 Đọc "Trăng lạnh" tập thơ của Lê Ngã Lễ, chúng ta bắt gặp chính anh trong cuộc đời bằng thơ, bằng ngôn ngữ thật, đầy tình và cảm xúc. Đó cũng chính là đặc điểm của thơ anh.
N.T.N
(nguồn: TCSH số 161 - 07 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ MINH PHONG

    (Nhân đọc: Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Khoa học xã hội, 2017).

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Trong sách “Nhìn lại lịch sử”, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tác giả Phan Duy Kha viết bài “Một bài thơ liên quan đến lăng mộ vua Quang Trung”.

  • BÙI KIM CHI

    “Tháng Tám năm Ất Dậu (1945)… Là công dân Việt Nam nên tôi đã tham gia phong trào chống xâm lăng…”. (Truyện ngắn Mũi Tổ).

  • TRƯƠNG THỊ TƯỜNG THI

    Thuật ngữ triết luận gắn với tính trí tuệ hay tính triết lý trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng xuất hiện từ rất sớm.

  • NGUYỄN THẾ QUANG

    Nói đến nhà văn Nguyễn Khắc Phê thì không gì bằng đọc cuốn tự tuyện của anh. Số phận không định trước(*) đưa ta đi suốt cuộc hành trình sáng tạo nghệ thuật bền bỉ quyết liệt suốt năm chục năm qua của anh.

  • NGUYỄN HỮU SƠN

    Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) gốc họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp (nay thuộc phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng Thiền Nam phương Tì Ni Đa Lưu Chi.

  • NGUYÊN QUÂN

    Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.

  • TUỆ AN

    Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Ngô Thì Nhậm viết bài thơ Cảm hoài cách đây 223 năm, nhân đi sứ báo tang Tiên hoàng Quang Trung băng hà và cầu phong An Nam quốc vương cho vua Cảnh Thịnh.

  • NGUYỄN THỊ THANH LƯU

    Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.

  • MAI VĂN HOAN

    Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.

  • TRIỀU NGUYÊN

    1. Đặt vấn đề
    Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ  

    (Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    (Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)

  • VŨ TRỌNG QUANG

    Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:

  • GIÁNG VÂN

    Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.

  • LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.

  • Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.

  • Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.

  • Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.