CAO HUY THUẦN
Từ trong mênh mông, một sợi mưa rơi vào lá sen. Nước vốn không có hình. Nằm trong lá, nước tròn như một viên ngọc, tròn như một hạt lệ, tròn như một thủy chung. Gió thoảng qua, lá sen lay động, nước rơi không để lại một dấu vết, rơi như chưa bao giờ có, rơi như một hững hờ.
Ảnh: internet
Câu chuyện đạm bạc chỉ có thế. Chỉ có thế, câu chuyện hội ngộ giữa một trái tim đa tình với một chữ không tinh quái.
Giọt nước cành sen không phải là một tập thơ đạo. Những ý thiền đi vào thơ như hương sen thoảng mặt hồ. Bao nhiêu cảnh trong thơ là bấy nhiêu tứ thiền thấp thoáng: trong tiếng gió hát muôn đời trên sóng, nơi mây trắng bay tự nghìn thu, giữa tiếng sóng vỗ rì rầm từ muôn xưa, nơi ánh trăng đùa nghịch với bờ ao từ bao thế kỷ... Nhà thơ không cần nhiều lời để nói về chữ tâm: chỉ một ánh sao lóe lên cũng đủ làm sáng trời đêm, chỉ một tiếng chim kêu cũng đủ làm hoa nở thắm :
Chợt con khuyên hết ngoài hiên trúc
Nên đóa hoàng mai nở diệu thường
Chữ tâm bừng sáng đó, một thiền sư nổi tiếng ngày xưa đã diễn tả trong một câu thơ nổi tiếng :
Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa
Chỉ cần một hơi ấm mùa xuân thoảng qua, muôn hoa nở rộ khắp nơi khắp chốn. Đó là trạng thái liễu ngộ bàng bạc trong Giọt nước cành sen.
Có khi, đó là sự tương quan giữa Một và Vô Cùng, như trong vô cùng tiếng sóng của muôn ngàn thế kỷ vẫn nghe được dư âm của một tiếng rì rầm :
Ta hát một mình trong tiếng sóng
Nghe từng cơn sóng vỗ trong ta
Có khi, đó là câu hỏi vu vơ về tâm thức, câu hỏi đặt ra giữa trời đất và người, giữa bao la vô ý thức và ý thức về bao la.
Ta trong trời đất bao la
Mà bao la đó trong ta có gì?
Có khi đó là một "cái gì" không nói được, không nghĩ được, "bất khả tư nghì", như ánh sao chớp lên một tia sáng rồi biến mất trong gió đêm:
Có gì lấp lánh cùng sao biếc
Với gió qua thềm khuya ngát hương
Cũng có khi cái "ta" muôn thuở, cái "ta" vắng lặng, thường còn thấp thoáng hiện ra sau bao nhiêu bối rối của giao động như bóng đêm còn mãi trong đáy nước lao xao :
Ai khỏa nước tan nhòa bóng lạnh
Nước trôi còn lại những đêm thâu
Và có khi chẳng có gì cả, chỉ một hư không huyền nhiệm :
Sao nghe thanh thoát ngoài hiên vắng
Một tiếng hư không sáng lẽ thường
Tất nhiên, một trái tim đa tình không dễ gì học được chữ giác. Thói thường, nhiều tình thì nhiều duyên, nhiều nợ. Ở đây, người nhiều tình thì lại không có nợ, không có duyên, chỉ có đơn côi. Dù vào tận trong mây, dù vào tận cuối rừng nguyên thủy, dù vào tận đáy giấc chiêm bao, một nửa vẫn không tìm ra một nửa, nửa đời vẫn tương tư nửa đời, nửa thân vẫn lạnh lùng nửa thân, nửa ta soi nước vẫn không thấy bóng của mình. Trăng non đi tìm trăng khuyết còn gặp nhau đêm rằm. Ta với mình bao giờ trùng phùng với nhau trong một chữ Ai!
Giọt nước cành sen, vì vậy, còn là tiếng thở dài của một chiếc bóng côi cút, của một tâm hồn bơ vơ.
Bơ vơ như chiếc nến trong đêm :
Có người thắp nến bơ vơ
Bơ vơ như nhịp cầu giữa bèo trôi nước chảy :
Nhịp cầu lắng những bơ vơ
Bèo trôi nước chảy nửa bờ hoàng hôn
Bơ vơ với gió đêm:
Gió mang thao thức vào đêm âm thầm
Bơ vơ với trăng xế :
Về đây đời lạc bóng dài
Phiêu diêu trăng xế lạnh ngoài hiên sương
Nhưng phiền thì có phiền mà lụy thì không lụy. Nước mắt khô, nụ cười nở. Nở tận mây cao :
Một mình đi giữa phù vân
Nụ cười vẫn ngát mấy tầng mây cao
Nở ngút ngàn sóng :
Nụ cười phơi phới trên ngàn sóng
Như đóa phù dung giữa mộng trường
Nở thiên thu bất tận :
Gió đi qua mãi trong đời
Lòng ai vẫn ngát nụ cười thiên thu
Giao động thoảng qua, an nhiên trở lại :
An nhiên ngày lại qua ngày
Mỉm cười như vẫn thơ ngây thuở nào
An nhiên như mặt hồ hứng chiếc lá rụng :
Có thấy gì khi chiếc lá bay
An nhiên kìa mặt nước vơi đầy
An nhiên dù chớp biển mưa nguồn :
Dù xa trời có chuyển mưa
Xem như giọt nước khẽ đùa ánh trăng
Ai dám bảo sóng làm trăng vỡ? Đâu có, nguyệt nhà thơ vẫn tròn:
Dù trăng có vỡ làm bao mảnh
Vẫn thấy lòng ta bóng nguyệt tròn
Ai dám bảo mưa hoài chẳng tạnh. Đâu có, mưa tạnh rồi trăng sáng :
Mưa tạnh bao giờ... trăng chợt lên
Hương lan như thoảng ngát bên thềm
Chuông chùa văng vẳng trong thanh tịnh
Ai thấy vầng trăng sáng suốt đêm?
Giọt nước cành sen là câu chuyện trở về với Tâm.
Câu chuyện tạnh mưa trăng sáng.
***
Người đọc có thể nghĩ rằng một vài chỗ trong tập thơ có thể điêu luyện hơn thế nữa. Người phê bình cũng có thể tìm thấy vài từ, vài ý, vài hình ảnh của bài thơ này hiện ra trong bài thơ kia. Nhưng nét tài hoa kia, và tài hoa một cách tự nhiên, không trau chuốt vẫn là điểm nổi bật của tập thơ. Tài hoa nhất có lẽ là những bài thơ Đường. Ở đây, nhà thơ vừa có cái trong phong thái chững chạc, ung dung của người bạc tóc, vừa có cái duyên dáng mát rượi của độ xuân thì. Bài thơ đi rất êm, rất nhẹ, và hai câu kết bao giờ cũng mở ra như hai cánh cửa giữa vùng cao rộng, bát ngát, mênh mông của thi tứ :
Có phải người say bên án sách
Mà quên tiếng gọi vút trời xanh...
Mà không phải chỉ trong những bài thơ Đường. Câu cuối của bài thơ nào cũng vậy, kể cả những bài thơ ngắn bốn câu:
Đồi xa nắng chếch bên rào
Có người mang nắng đi vào hoàng hôn.
Trong bài "Tùng hạ vấn đồng tử" của Giả Đạo thời Đường, có người khách dừng chân dưới gốc tùng hỏi chú tiểu đồng xem thầy của chú có nhà không. Chú chỉ tay lên núi: "Thầy tôi đi hái thuốc trong núi kia, quanh quất đấy thôi, nhưng mây che kín núi, không biết thầy tôi ở chốn nào".
Chỉ tại thử sơn trung
Vẫn thâm bất tri xứ
Tôi có cảm tưởng thấy ngón tay nhỏ chỉ lên núi cao trong tập thơ phong nhã này.
C.H.T
(SH33/10-88)
------------
(1) Bài tựa tập thơ "Giọt nước cành sen" của Thân Thị Ngọc Quế, Việt kiều ở Mỹ, do tác giả xuất bản.
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi