Cuối thời tiền sử con người chưa biết chữ nhưng đã biết sử dụng hình ảnh để truyền đạt cho nhau những thông điệp khác nhau. Hình ảnh có thể được khắc, vẽ trên những thành vách hang động, nặn bằng đất sét hoặc khắc trên xương. Ngày nay một số hình ảnh cổ xưa vẫn còn tồn tại, dù trải qua bao nhiêu thời gian chúng vẫn cho ta biết và cảm nhận được những suy nghĩ, tình cảm của con người trong các giai đoạn lịch sử sản sinh ra chúng. Nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật, chúng ta thấy rõ: nghệ sĩ- tác giả của các tác phẩm chính là “người truyền thông” (communicator) chuyển tải vô số thông điệp trong xã hội họ đã, đang và sẽ sống. Thông qua các hình ảnh: từ các đường nét đơn giản đến các hình dáng phức tạp, từ hình tĩnh đến hình động, nghệ sĩ truyền đạt tới người xem nhiều nội dung khác nhau, mô tả được biết bao thứ cần thiết. Ngôn ngữ bằng hình ảnh như: tranh, tượng, phim, ảnh là trực quan, phong phú và mạnh mẽ. Cũng như những ngôn ngữ khác, cần phải học nó, nếu không, các hình ảnh sẽ trở nên câm lặng và sự truyền đạt thông tin sẽ không tự thiết lập. Điều này giống như một người không biết chữ giở xem một cuốn tiểu thuyết. Những dạng truyền đạt thông tin bằng hình ảnh thường gồm các thành phần sau: 1. Người phát thông điệp: chủ nhân của thông tin. 2. Thông điệp: nội dung của sự truyền thông. 3. Mật mã: hệ thống tín hiệu được sử dụng để truyền đạt thông tin, nó phải được biết đến và chỉ ra thông điệp. 4. Phương tiện: vật liệu, phương thức, kỹ thuật để biểu đạt thông điệp 5. Người cảm thụ: người được nhận thông điệp. 6. Bối cảnh: thời gian và môi trường sinh ra sự truyền đạt thông tin. 7. Chức năng: các yếu tố trong hình ảnh, tác phẩm đã phát ra được những thông điệp gì? Tác dụng của thông điệp. Một ví dụ về truyền đạt thông tin thị giác Chúng ta thử phân tích sự truyền đạt thông tin thị giác tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng “Bữa ăn cuối cùng của Chúa Giê-xu với tông đồ” do Lê - ô - na đờ Vanh - xi (Leonardo da Vinci) vẽ. Tác phẩm nằm ở Milăng, trong tu viện Santa Maria delle Grazie. Đây là tác phẩm chứa nhiều yếu tố phức tạp, tốn công phu để xây dựng. Bằng ngôn ngữ hiện đại, chúng ta sẽ nói tác phẩm này hợp thành “một bài khóa” mang tính thị giác mà người quan sát (hoặc người thưởng thức) có thể “đọc” ở những trình độ khác nhau. Người phát thông tin là Lê- ô- na đờ Vanh- xi- một nghệ sĩ lớn và cũng là nhà bác học thiên tài sống cách đây hơn 500 năm. Thông điệp của tác phẩm là bức tranh tường tả cảnh bữa ăn cuối cùng của Chúa Giê- xu với những tông đồ, trước khi ông bị đóng đinh vào cây thánh giá. Mật mã (code) là bức tranh thời Phục Hưng ý. Trong tranh, các nhân vật được tả rõ phần nửa người phía trên, mỗi chân dung đều rất sống động. Đặc biệt, luật phối cảnh được áp dụng một cách độc đáo, đem lại chiều sâu cho không gian trong tranh. Đây là cách diễn đạt tiêu biểu của hội họa Phục Hưng, khác với thời kỳ Trung Đại. Phương tiện là bức tranh tường lớn ở nhà ăn của tu viện. Trên nền thạch cao, Lê- ô- na đã vẽ tác phẩm bằng kỹ thuật “tranh tường” (còn gọi là “tranh nề” (penture à fresque). Ban đầu người xem tranh chỉ là các tín đồ tôn giáo trong tu viện. Ngày nay khách du lịch khắp thế giới đã được thưởng thức và hết lòng khâm phục tài năng của họa sĩ. Người ta nói đây là tác phẩm nghệ thuật đích thực dành cho loài người. Bối cảnh ra đời tác phẩm trong thời kỳ Chúa đế vương ở ý, thuộc thời Phục Hưng (thế kỷ XV và XVI). Lúc đó, những lãnh chúa giàu có đua nhau sử dụng các họa sĩ khéo léo để vẽ tranh phục vụ tôn giáo. Họ đã hùn vốn đặt tác phẩm của nhiều nghệ sĩ. Chức năng của tác phẩm là giáo dục tôn giáo. Trước khi ăn, ở phòng ăn của tu viện, những tín đồ tôn giáo tĩnh tâm và cầu nguyện trước bức tranh này. Hình ảnh trong tranh gợi lại nhiều lần lời dạy chủ yếu của đạo Cơ Đốc: sự dạy dỗ của Thánh thể (Eucharistie), sự phản bội của Giu- đa và tưởng niệm sự hy sinh của chúa Giê - xu.
|
LUÂN NGUYỄN
Trần Đức Thảo, với người Việt, hiển nhiên là một trí tuệ hiếm có. Trong tín niệm của tôi, ông còn là một trí thức chân chính. Một trí thức dân tộc.
MAI VĂN HOAN
Trong những tháng ngày ở Châu Thai chờ đợi Từ Hải, sau khi diễn tả nỗi nhớ của Kiều đối với quê nhà, cha mẹ, Nguyễn Du viết: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng/ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Vua Minh Mạng (tên hoàng tử là Nguyễn Phúc Đảm) lên làm vua năm Canh Thìn (1820). Ông là một vị vua có tri thức uyên thâm, biết nhìn xa thấy rộng.
VĂN NHÂN
Trong bài thơ viết về dòng sông Hương, Nguyễn Trọng Tạo có bốn câu khá hay: Con sông đám cưới Huyền Trân/ Bỏ quên giải lụa phù vân trên nguồn/ Hèn chi thơm thảo nỗi buồn/ Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ (Con sông huyền thoại).
THÁI KIM LAN
(Đôi điều về Con Đường Mẹ Đi)
Trước tiên, khi thử nhìn lại con đường của Mẹ - Đạo Mẫu, tôi lại muốn đánh dấu chéo gạch bỏ những khái niệm “Đạo Mẫu”, Tiên Thánh Liễu Hạnh, Thánh Cô và một loạt những nhân vật được tôn sùng cho sức mạnh, thế lực hàng đầu của nữ giới Việt, thường được hóa thánh, sùng thượng một thời.
THÁI DOÃN HIỂU
Thân sinh của Cao Bá Quát là ông đồ Cao Hữu Chiếu - một danh nho tuy không đỗ đạt gì. Ông hướng con cái vào đường khoa cử với rất nhiều kỳ vọng.
ANNIE FINCH
Chúng tôi khát khao cái đẹp thi ca, và chúng tôi không e dè né tránh những nguồn mạch nuôi dưỡng chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng với chủ nghĩa Toàn thể hình thức (omniformalism), cho một thi pháp phong phú và mở rộng, giải phóng khỏi những doanh trại của những cuộc chiến thi ca đã chết rấp.
Chuyên luận THƠ NHƯ LÀ MỸ HỌC CỦA CÁI KHÁC (Nxb. Hội Nhà văn - Song Thuy bookstore, 2012, 458tr) gồm ba phần: Phần một: THƠ NHƯ LÀ MỸ HỌC CỦA CÁI KHÁC, Phần hai: CHÂN TRẦN ĐẾN CÁI KHÁC, Phần ba: NHỮNG NẺO ĐƯỜNG CỦA CÁI KHÁC.
NGUYỄN QUANG HUY
(Khảo sát qua trường hợp "Người sông mê" qua cái nhìn của lí thuyết Cổ mẫu)
NGUYỄN HỮU TẤN
Trong buổi lễ mừng thọ thất tuần, Sigmun Freud đã từng phát biểu: “Trước tôi, các thi sĩ và triết gia đã sớm phát hiện ra vô thức, còn tôi chẳng qua cũng chỉ khám phá ra những phương pháp khoa học để nghiên cứu vô thức mà thôi”.
Tóm lược bài nói chuyện trao đổi một số vấn đề về tình hình văn học Xô viết những năm 80, đặc biệt là sau Đại hội 27 của GSTS V. Xmirnốp trong chuyến thăm Huế với Chi hội Nhà văn Bình Trị Thiên của đoàn cán bộ Học viện văn học Gorki (Liên Xô cũ) do nhà thơ Valentin Xôrôkin, phó Giám đốc Học viện và GSTS Vladimia Xmirnốp đã sang Việt Nam giảng dạy tại trường Viết văn Nguyễn Du năm 1987.
Tỳ kheo THÍCH CHƠN THIỆN
Theo Spaulding - The “New Rationlism”, New York, Henry Holt and Conpany, 1918, pp. 106 - 107 -, Aristotle nêu lên ba nguyên lý cơ bản của tư duy:
TRẦN NGUYÊN HÀO
Năm 1987, tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa của Liên hiệp quốc, UNESCO trong cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 24 (tại Paris từ 20/10 đến 20/11) đã ra Nghị quyết phong tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh danh hiệu kép: “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn”.
ĐỖ HẢI NINH
Quan sát hành trình Thơ mới, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, vào đầu thập kỷ 40 của thế kỷ XX, Thơ mới bắt đầu có dấu hiệu chững lại, thậm chí khủng hoảng về cảm hứng và thi pháp.
JU. LOTMAN
Từ “biểu tượng” (symbol, còn được dịch là tượng trưng, biểu trưng, phù hiệu, kí hiệu) là một trong những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các khoa học về kí hiệu(1).
PHẠM TẤN HẦU
Trong bản tham luận về mảng thơ trên trang viết đầu tay của Tạp chí Sông Hương do anh Hoàng Dũng trình bày tôi thấy có chủ ý nói đến tính khuynh hướng. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được đặt ra một cách chặt chẽ, sâu sắc. Theo tôi, nếu hướng cuộc thảo luận đến một vấn đề như vậy chắc sẽ đem đến cho những người viết trẻ nhiều điều bổ ích hơn.
ĐỖ VĂN HIỂU
Tóm tắt
Trước tình trạng môi trường toàn cầu đang ngày một xấu đi, giữa thập niên 90 của thế kỷ 20 Phê bình sinh thái đã ra đời với sứ mệnh cao cả là phân tích chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, nghiên cứu quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên.
LƯỜNG TÚ TUẤN
Việc lý luận văn học thống nhất coi “ngôn ngữ là chất liệu của văn học” đã không vì thế mà dành cho cái chất liệu ấy một vị trí xứng đáng trong những luận thuyết và “diễn giải” của mình.
PHAN TUẤN ANH
“Chẳng ai đi dưới bóng hàng cọ mà lại không hề hấn gì”… Ở đời, trong cuộc chơi, cả hai bên đều phải đi qua dưới bóng hàng cọ”.
(Nguyễn Xuân Khánh) [2,806]
TRẦN THIỆN KHANH
“Mai kia, những cái tầm thường, mực thước sẽ mất đi, còn lại chút gì đáng kể của thời này, đó là Hàn Mạc Tử.”
(Chế Lan Viên)